Trên đầu chúng tôi bắt đầu xuất hiện những con chim lạ, loài chim này chúng tôi chưa thấy bao giờ. Chúng bay về phương Bắc. Trăng hôm nay cũng rất lạ, trăng không vàng như những ngày qua, chúng tôi nhìn thấy rõ ràng mọi thứ xung quanh. Đó có thể là một điềm báo, đôi khi là một niềm vui, nhưng những điều quái gở cũng có thể diễn ra. Cuộc sống chúng tôi có quá nhiều thứ để mà ngạc nhiên. Trước niềm vui chúng tôi thường im lặng, không mỉm cười hay hò hét như những kẻ bình thường khác. Trước điều quái gở chúng tôi mỉm cười, thậm chí có một vài kẻ trong chúng tôi trở nên yêu thương nó. Sau lưng chúng tôi xuất hiện một người lạ. Nhìn sự thay đổi ánh sáng của trăng chúng tôi biết đó là một lão già. Lão tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi không chào lão hay mỉm cười với lão, bởi đơn giản lão là người lạ. Chúng tôi luôn cảnh giác trước những người lạ. Đôi khi dưới ánh trăng như thế này chúng tôi gặp một kẻ lừa đảo. Hắn đến và xin chúng tôi một vài điếu thuốc, rồi hắn hát cho chúng tôi nghe, hắn ngợi ca chiến tranh và bảo chiến tranh là đau khổ. Chúng tôi hỏi đã là đau khổ thì việc gì phải ngợi ca. Hắn nói đó là sự đả phá. Một mặt nạ hoàn hảo. Rồi hắn không bao giờ trở lại như lời hắn đã hứa. Lão trông nhỏ thó nhưng có đôi mắt sáng. Lão tự giới thiệu với chúng tôi lão đến từ một nơi hoàn toàn xa lạ. Chúng tôi muốn biết thế nào là xa lạ. Lão nói xa lạ là những gì chưa thân quen. Một người trong số chúng tôi không đồng ý với sự lý giải này. Theo hắn đôi khi những gì thân quen nhất lại là những gì xa lạ nhất. Ánh trăng lại chuyển màu, chúng tôi biết hắn đúng. Lão hỏi chúng tôi có thuốc không. Chúng tôi nhìn lên trời và ngắm trăng. “Nếu có thuốc thì hãy bố thí một điếu”, giọng lão van xin. Chúng tôi là những người tốt, người tốt thường hay làm những việc mà những người khác không làm. Chúng tôi lấy cho lão một điếu thuốc. Lão bảo hôm nay chúng tôi đã làm một điều tốt, rồi lão châm lửa hút. Lão hát cho chúng tôi nghe mặc dù chúng tôi không đưa ra lời đề nghị. Lão ngợi ca hoà bình. Giọng lão run nhưng trầm ấm. Lão nói “ta đến từ hoà bình”. Cuộc sống của chúng tôi cũng gọi là thanh bình vì thế chúng tôi hiểu rõ thế nào là hoà bình. “Hoà bình là thế nào?” lão hỏi. “Hoà bình là cuộc sống mà những con chim tự do ca hót,” chúng tôi trả lời. “Kể cả những con chim không biết hót?” lão lại hỏi. Theo chúng tôi thì điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Bởi ngày hôm qua một con cú bay qua trên đầu chúng tôi và cất lên những tiếng như là tiếng hót. “Như thế là hạnh phúc?” lão nghi ngờ. “Đúng, như thế là hạnh phúc,” chúng tôi khẳng định. Nhưng lão khăng khăng nói đó chưa phải là hạnh phúc. Lão còn hỏi chúng tôi thế nào là đau khổ. Chúng tôi bảo đau khổ là không hạnh phúc, thầy giáo chúng tôi đã từng nói thế. Lão chất vấn chúng tôi là đã sống trong đau khổ chưa. Chúng tôi nhìn lên bầu trời và ngắm trăng. “Đau khổ là hạnh phúc.” Lão khẳng định. Chúng tôi giả vờ không chú ý đến lão nhưng thực tình cũng lơ mơ hiểu những điều lão nói. Cuối cùng thì chúng tôi đâm ra hoài nghi về cuộc sống của chúng tôi. Về hạnh phúc và đau khổ. “Trăng sẽ tan ra và chảy xuống, khi trăng tan ra đó là đau khổ, khi trăng chảy xuống đó là hạnh phúc.” Nói xong lão ra đi. Chúng tôi muốn biết khi nào thì lão quay trở lại. Lão hứa là sẽ trở lại. Khi trở lại lão sẽ hát cho chúng tôi nghe về chiến tranh, về hoà bình, về tất cả mọi thứ. Trước khi đi lão xin chúng tôi thêm một điếu thuốc, nhưng thuốc của chúng tôi đã hết. Lão cười và bảo rằng “trăng lại chuyển màu.” Thì chúng tôi cũng ý thức được thực sự là trăng đã chuyển màu và những con chim lạ đã bay đi, chúng bay đi và không hề trở lại.