Em nghe tiếng mẹ đẻ của anh Và ngỡ nước chảy— một ngôn ngữ mà cả cỏ dại cũng đối đáp theo vần. Anh không biết chảy ra sao nhưng đây: Năm đó hè về Huế lặng lờ Xác người Nhiều hơn xác ve ve. Trong ngôn ngữ mẹ đẻ của em hơi thở là từ vựng, tinh thần. Của anh, hơi thở là sự mong manh Thều thào, thoi thóp. Trong ngôn ngữ của anh, chết là chuyện thường tình. Anh không dịch được điều còn lại: mất mát. Ở Huế, chúng anh nói, mất mát, mất mát. Khi anh nói về khổ đau Em hiểu anh đã mệt; Người ta cứ muốn anh thế để họ tin họ sẽ hiểu thêm chút gì về mất mát. Họ sẽ không bao giờ. Họ đã cướp đi bao nhiêu đất nước: của em, của anh, và vẫn đang cướp. Họ cướp cả đất nước của họ Khỏi tay những công dân của họ. Rồi họ hỏi mình về những mất mát. Lắng nghe: trong chòm lá, tiếng gió Quanh đây còn tiếng oan hồn nỉ non, Quanh đây còn tiếng oan hồn nỉ non. Em học cách cầu nguyện với những hạt tràng thơm. Anh vẫn sống với mùi hương nhangđốt trong một ngàn tang lễ hè năm đó ở Huế. Anh nợ em nhiều hơn những lời tạ lỗi, nhưng thôi, không nói thêm. Anh đã nói mãi về ký ức và khổ đau, mô tả chi tiết về những nơi da bị rạch nát, và những cái sẹo khó tin, không lành. Và anh đã nói đến khi không còn biết em là ai. Anh tạ ơn em, về những lần anh không thấy Mà em còn nhớ, những lúc anh cứ mù câm. Mắt anh không thấy gì ngoài những chuyện đã qua từ lâu. Anh chờ một ngày mai biết gom mọi phần tách biệt của anh thành một. Nước mưa không nhỏ lên mây, Mấy thuở mưa rơi nước ngược về trời. Mình nói chuyện lần cuối vào tháng chín Nhưng em đã quên. Lần cuối cùng mình nói chuyện là nói về quỷ dữ sống ở nơi người lưu vong như mình giữ kín trong thâm tâm. Ngôn từ của người lưu vong không đi đâu được nên cứ ngược vào bên trong. Người lưu vong có hai loại – Một cứ tin vào những ảo vọng Của đất nước mới, có loại Chỉ mang ám ảnh về những gì đã để lại sau lưng: Mất mát, mất mát. Mẹ của em, trong căn nhà ở miền nam, thuộc loại thứ nhất—loại có cơ hội. Bố của em—trên máy bay, trong tuyệt vọng, Mãi bay về hải đảo, căn nhà thơ ấu— Chẳng thuộc về đâu cả. Em đã biết thế, sao lại ngây ngô Lao vào anh, vào quá khứ của anh? Anh xin lỗi, mình vướng vào giữa hai loại mang khát vọng với tương lai, nhưng hục hặc mãi với quá khứ. Anh xin lỗi vì anh với em đã biến thành cơn tuyệt vọng. Em ân cần mường tượng – Em trong ngôi làng Andalusia nắng sáng Còn mang tang, quay bọc giữa những hồn ma nô lệ của kẻ bại trận. Anh, trong căn nhà quét vôi trắng Phía xa Marrakesh, gần bờ biển, Viết thư kể em nghe về sa mạc và nước. Nước, nước, nước. Nước—trong ngôn ngữ của anh, từ ngữ để nói về quê hương. Viết cho anh một bài thơ nữa, để nói về quê hương, của em, của anh, bị họ cướp: Nước lìa khỏi nguồn. Viết, cả bằng ngôn ngữ áp đặt lên bao nhiêu người, nhưng không có từ để dịch hoặc nói thật về trạng huống của anh, của em: Mất nước — mất nước. Anh và em bị ám ảnh như thế — mình thất lạc khi không có nước, và không có gì thế được nước. Em, bứng rễ, không neo, Đang hiểu ra: càng xa anh càng sớm, em sẽ càng sớm dứt cơn bịnh, dứt ám ảnh về chiến tranh và mất mát. Em can đảm mà mường tượng một cuộc sống riêng nhưng chung: kết nối lịch sử của hai đất nước để tạo nên chúng ta. Mấy thuở mưa rơi nước ngược về trời? Mình toan tính và rút lui, Mình là lưu vong—cuộc sống Chỉ có ký ức—quá khứ. Ngôn ngữ của người lưu vong Chỉ có thì đã qua—quá khứ. Có khi mệt mỏi, anh thây kệ Người ta sống cứ như thế: người thì nhân từ, người độc ác. Mình thì cứ ngỡ sẽ sống với thương yêu Như khi anh chọn nằm vào phía Có mặt trăng chiếu sáng Để cho em có bóng tối Anh tưởng sẽ mang an lành cho đêm của em. Trong giấc ngủ, em trở lại với ngôn ngữ anh không hiểu. Những từ ngữ, như nhân tình cuộn vào nhau, nhảy múa theo nhịp thở của anh — thoi thóp, nhảy múa đúng nhịp với thở than. Bên ngoài, hoa xương rồng nở rộ trên thang cấp cứu – nhưng anh che chở em im lặng về những ký ức hoa xương rồng đánh thức, về hỏa châu thắp sáng những thân thể trốn chạy chiếu rõ những giết chóc thời anh còn trẻ. Nhưng phần lịch sử đó, anh có cố vẫn không giấu được em. Em mang vào tâm trí, Mang ác mộng của anh làm ác mộng của mình. Những kẻ cướp, những người đội mũ xanh, bộ đồ vét đen, lột trần anh và em— mất nước. Về sau, em đi qua từng làng mạc Cố chuyển ngôn từ lưu vong Thành thơ. Anh đi từ tường xi lạnh lẽo hay quét vôi trắng, đến những căn hộ Trên những sân thượng xa xăm Một mình đối đầu với sự cô đơn. Quê hương mà không phải là quê hương. Mình hóa thành du mục; những thành phố mới là những sa mạc mình băng qua, không phải để tìm sự cứu rỗi, vượt cơn đói khát mà chỉ để tìm chính mình. Em đã biết thế Đáng ra phải biết Không thể có tình yêu. Không thể có anh và em. Trời chuyển màu, trăng nhạt, Hoa xương rồng teo tóp sau một đêm và rơi rụng. Anh đưa lưỡi nói hết mọi thớ thịt của em, và chuẩn bị rút lui. Trước lúc trời sáng, mình trở lại với cơn im lặng tuyệt vọng. Không có thể có tình yêu, không có tương lai. Anh chỉ nhìn thấy quá khứ Và sẽ không thấy em Cho đến khi em đã ra đi. Những người lưu vong như mình chỉ biết đi lùi trong cuộc sống. Huế, để đi lùi, là nơi mẹ anh ra đời. Em sẽ thích Hương Giang. Nhưng ở Huế người ta chỉ nói “sông Hương,” giòng sông chảy khoan thai về phía biển, như thể một ngàn năm khổ đau không hề chảy vào giòng nước. Ở vĩa hè dưới bóng phượng, những nhân tình thì thầm những câu họ tưởng là mới mẻ không biết gì về những hồn ma. Huế là nơi mẹ anh gặp bố anh biết yêu, và anh chết lần đầu, mùa xuân khi mà lính chiến giết nhau chưa đủ ngoài trận mạc. Những mất mát của anh bắt đầu từ đó Và vẫn chưa dứt. Anh vẫn ôm ấp em như anh ôm ấp Huế. Nhưng anh với em ôm ấp Những gì mình thương yêu như ôm ấp mất mát— Sâu tận ở một nơi những người lưu vong giữ kín trong thâm tâm.
- Nguyễn Quí Đức -ảnh của Nguyễn Quốc Thành